PGTPHCM – Sáng ngày 20/02 (nhằm mùng 1 tháng hai),tại Pháp Viện Minh Đăng Quang (TP. Thủ Đức), hệ phái Khất sĩ Việt Nam long trọng tổ chức lễ tưởng niệm 69 năm ngày Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng.
Đến dự buổi lẽ có Trưởng lão Hòa thượng Thích Giác Tường – Ủy viên Thường trực Hội đồng Chứng Minh, chư vị trưởng lão thành viên Hội đồng Chứng minh; Hòa thượng Thích Giác Toàn – Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, chư tôn đức Tăng Ni hệ phái Khất sĩ cùng đông đảo Phật tử trở về tham dự.
Buổi lễ tưởng niệm diễn ra trang nghiêm theo nghi thức truyền thống. Trưởng lão Hòa thượng Thích Giác Tường cùng chư tôn đức chứng minh hệ phái khất sĩ thành kính dâng hương tưởng niệm Tổ sư và cùng đọc tụng bài kệ tưởng niệm tri ân các thế hệ tiền bối khai sáng hệ phái.
Tiếp đó, chư tôn trưởng lão Tăng già nhị bộ hệ pháp Khất Sĩ thiền hành nhiễu quanh tháp và thấp hương tưởng niệm Hòa thượng Thích Giác Nhiên – viện chủ khai sơn Pháp viện, người có công lớn trong việc truyền bá Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam ra các nước.
Được biết, chiều ngày 19/02 (nhằm 29 tháng giêng), chư tôn trưởng lão thuộc Hội đồng Chứng minh, chư tôn đức Thường trực Hội đồng Trị sự, Ban Trị sự GHPGVN TP.Hồ Chí Minh, chư tôn đức Thường trực Ban Trị sự TP. Thủ Đức đã đến Pháp viện Minh Đăng Quang tưởng niệm Tổ sư.
Đôi nét tiểu sử Tổ sư Minh Đăng Quang
Tổ sư Minh Đăng Quang thế danh Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Hườn, sinh năm 1923 tại Tam Bình, Vĩnh Long.
Năm 15 tuổi, ngài xin phép thân phụ rời Vĩnh Long sang Campuchia làm việc và tìm hiểu Phật Pháp. Năm 19 tuổi ngài trở về Sài Gòn. Một năm sau theo sự sắp xếp của gia đình, ngài kết hôn. Cuối năm 21 tuổi, người bạn đời và con thơ đều thọ bệnh qua đời.
Thấy rõ vô thương cùng với tâm cầu đạo sẳn có, ngài xin phép thân phụ lên miền Thất Sơn xuất gia học đạo. Sau đó, ngài du hành sang Mũi Nai, Hà Tiên với dự định xuất dương sang các nước quốc giáo cầu đạo. Tại đây, ngài đã tham thiền suốt 7 ngày 7 đêm và chứng ngộ lý pháp “Thuyền Bát-nhã”. Sau đó, ngài quyết định ở lại Việt Nam và được một thiện nam thỉnh về chùa Linh Bửu (Mỹ Tho) an trú thiền định.
Tại đây, ngài phát nguyện thọ trì y bát, giới Sa-di, rồi Cụ túc giới với pháp hiệu Minh Đăng Quang, tiếp tục “Nối truyền Thích Ca Chánh pháp”, sống đời phạm hạnh, giải thoát.
Năm 1947, ngài đã nhiếp hóa cả hai chúng xuất gia Tăng, Ni Khất sĩ và hai chúng nam, nữ cư sĩ. Những thời thuyết pháp của ngài còn ghi lại trong bộ Chơn lý gồm 69 tiểu luận.
Sau 10 năm tu tập và hoằng hóa, mùng 1-2-Giáp Ngọ (1954), trên đường hành đạo từ Sa Đéc qua Vĩnh Long đến Cần Thơ, ngài thọ nạn và vắng bóng cho đến ngày nay.
Quốc Hương